Lăng Tự Đức
Lăng Tự Đức là một trong những công trình đẹp nhất của kiến trúc thời Nguyễn. Ông vua thi sĩ Tự Đức (1848-1883) đã chọn cho mình một nơi yên nghỉ xứng đáng với ngôi vị của mình, phù hợp với sở thích và nguyện vọng của con người có học vấn uyên thâm và lãng tử bậc nhất trong hàng vua chúa nhà Nguyễn.
Với 36 năm trị vì, Tự Đức là ông vua tại vị lâu nhất trong số 13 vua nhà Nguyễn. Ông tên là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, con trai thứ hai của vua Thiệu Trị. Theo luật thế tập của chế độ phong kiến, lẽ ra anh trai ônglà Hồng Bảo mới là người nối ngôi. Nhưng do tài năng thấp kém, tính khíngông nghênh nên Hồng Bảo bị vua cha phế truất khỏi ngôi Tiềm để, HồngNhậm được đưa lên ngai vàng trở thành vua Tự Đức - một vị vua, một nhàthơ hiền lành, thương dân, yêu nước nhưng thể chất yếu đuối, tính cáchcó phần bạc nhược và bi quan.
Lăng Khải Định
Trong số các lăng triều Nguyễn, lăng Khải Định hay còn gọi Ứng Lăng là công trình duy nhất có lối kiến trúc pha trộn giữa Đông và Tây. Đây là nơi yên nghỉ của vua Khải Định, vị hoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn. Lăng tọa lạc trên núi Châu Chữ (còn gọi là Châu Ê), thuộc xã Thủy Bằng, huyện Hương Thủy, cách thành phố Huế khoảng 10km về phía Tây Nam.
Tuy có kích thước khiêm tốn hơn so với lăng của các vua tiền nhiệm nhưng lăng được xây dựng tỉ mỉ, kỳ công nên tốn nhiều thời gian cũng như kinh phí hơn các lăng khác (từ năm 1920 - 1930). Sử sách ghi lại để có kinh phí xây dựng lăng, vua Khải Định đã xin chính phủ bảo hộ cho phép ông tăng thuế điền 30% trên cả nước và lấy số tiền đó để làm lăng.
Điểm nổi bật của lăng Khải Định là sự pha trộn giữa nhiều trường phái kiến trúc khác nhau như Ấn Độ giáo, Phật giáo, Roman, Gothique… Đặc biệt, lăng Khải Định nổi tiếng với 3 bức bích họa “cửu long ẩn vân” tuyệt đẹp được trang trí trên trần của 3 gian nhà giữa trong cung Thiên Định.
Lăng Minh Mạng
Tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua Minh Mạng là người có nhiều đóng góp đối với công việc mở mang đất nước, đưa nước Đại Nam lên hàng mạnh nhất trong các quốc gia Đông Nam Á lúc bấy giờ.
Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài1.750m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ đượcbố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầutừ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dángmột người nằm nghỉ trong tư thế vô cùng thoải mái, đầu gối lên núi KimPhụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh nhưđôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.
Dinh Đại Nội Huế
Dinh Đại Nội Huế hay còn gọi là Hoàng Thành Huế nằm bên trong Kinh Thành, có chức năng bảo vệ các cung điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành – nơi dành riêng cho vua và hoàng gia. Hoàng Thành và Tử Cấm Thành thường được gọi chung là Đại Nội.
Các di tích trong hoàng thành gồm:
Ngọ Môn
Điện Thái Hoà
Triệu Tổ miếu
Hưng Tổ Miếu
Thế Tổ Miếu
Thái Tổ Miếu Cung Diên Thọ
Cung Trường Sanh
Hiển Lâm
Cửu Đỉnh
Điện Phụng Tiên
Tử Cấm Thành - Các di tích trong Tử cấm thành gồm:
Tả Vu và Hữu Vu
Vạc đồng
Điện Kiến Trung
Điện Cần Chánh
Thái Bình Lâu
Duyệt Thị Đường
Chùa Thiên Mụ
Thiên Mụ nằm soi bóng xuống dòng sông cách trung tâm thành phố Huế 7 km về phía Tây, tính từ cầu Phú Xuân. Đây là một trong những ngôi chùa cổ kính nhất của VN, là một biểu tượng của đất Thần kinh.
Tên chùa Thiên Mụ gắn với truyền thuyết về bà tiên áo đỏ.
Tương truyền lúc chúa Nguyễn Hoàng vào đàng trong tìm vùng đất mới cho mình. Một đêm nọ, ông ngủ lại bên đồi Hà Khê, phía thượng nguồn sông Hương.
Bỗng nhiên, một bà mụ mặc áo đỏ, tóc bạc phơ, tay cầm một chiếc đũa tiên, hiện lên nói với chúa rằng: "Con hãy thắp một nén hương, đi thẳng về phía đông. Khi nén hương tắt ở vị trí nào, đó chính là mảnh đất mà con đang tìm kiếm".
Chúa giật mình tỉnh dậy. Cảm thấy có một điều gì đó thật linh thiêng, ông làm theo lời dặn của bà tiên. Cuối cùng, ông dừng ngay vị trí rất thích hợp phong thủy và cho đặt nền móng xây kinh thành.
Năm 1601, Chúa Nguyễn quay lại đồi Hà Khê, cho xây miếu thờ người đàn bà về báo mộng, đặt tên là Thiên Mụ (bà mụ nhà trời).Về sau, vua Gia Long cho xây thành một ngôi chùa khang trang, quy mô và đổi tên thành chùa Linh Mụ. Người Huế vẫn thường gọi bằng cả hai tên này.
Tháp Phước Duyên là linh hồn của ngôi chùa. Tháp gồm 7 tầng, mỗi tầng đều có một tượng Phật ở hướng Nam, riêng tầng trên cùng có đến ba pho tượng bằng vàng (sau đó bị mất và bây giờ chỉ còn là tượng đồng).
Biển Lăng Cô
Bãi biển Lăng Cô dài 10km, nằm cạnh đường quốc lộ 1A, gần đèo Hải Vân và chỉ cách khu Bạch Mã 24km
Với bờ biển thoải, cát trắng, nước biển trong xanh, và nhiệt độ trung bình khoảng 25oC vào mùa hè, Lăng Cô là nơi lý tưởng cho những ai đam mê tắm biển. Ngoài việc tận hưởng những món ăn hải sản tuyệt vời, du khách có thể đến thăm thắng cảnh Chân Mây và làng chài Lăng Cô gần bãi biển.
Nằm gần khu du lịch sinh thái vườn quốc gia Bạch Mã, Lăng Cô kết hợp được không khí hoang sơ của rừng núi và đặc trưng ồn ào, nhộn nhịp của vùng biển nhiều tàu thuyền qua lại. Du khách đến với Lăng Cô theo nhiều nhóm khác nhau, người đến để câu cá, lặn biển, người khác muốn leo núi, thăm rừng. Cũng có cả những du khách lớn tuổi ghé Lăng Cô đơn giản là để tĩnh dưỡng. Con người hiền hòa, khí hậu lúc mưa không mưa nhiều, khi nắng không nắng quá, cảnh quan trật tự, ngăn nắp. Khu nghỉ dưỡng Lăng Cô có khoảng 70 phòng, trong đó 45 phòng là dạng biệt thự có kiến trúc theo kiểu nhà vườn Huế. Cây xanh xen lẫn cảnh vật, nơi đây đầy đủ tiêu chuẩn của khu nghỉ mát 4 sao. Với những du khách mới đến, từng nhịp cầu cong đặt bên những chiếc ô che kiểu Hawaii, tán thông xanh mơ màng ngay cạnh những gốc cau cảnh... mang một vẻ đẹp rạng ngời, giống y như màu nắng và màu cát trắng nơi đây.